Lịch sử Việt Nam

Thạch Bi Sơn và dấu ấn lịch sử Nam tiến của vua Lê Thánh Tông (1470)

  • Ths. Ngô Minh Sang - Khoa Khoa học Xã hội và Nhân văn Đại học Thủ Dầu Một
  • 26/07/2012

Trong tiến trình mở đất về phương Nam, Thạch Bi Sơn[1] mang một dấu ấn lịch sử lớn, từng đóng vai trò phân ranh giữa 2 nước Đại Việt và Chiêm Thành. Sự kiện lịch sử đầu tiên và cũng gây nhiều tranh luận trong giới sử học là cuộc Nam tiến của vua Lê Thánh Tông vào năm 1470. Nhiều tác phẩm biên khảo cho rằng vào năm 1471 vị vua trẻ tài ba Lê Thánh Tông tiến quân đến tận chân núi Thạch Bi và sai lính khắc bia để làm ranh giới 2 nước Đại Việt và Chiêm Thành. Tuy nhiên, gần đây nhiều nhà nghiên cứu Sử học, Khảo cổ học, Dân tộc học và Bia ký học khảo cứu lại sự kiện trên, bước đầu minh xác về sự thật sự kiện vua Lê Thánh Tông cho người khắc bia trên dãy núi Thạch Bi. Bằng việc vận dụng phương pháp nghiên cứu khoa học xã hội liên ngành (Dân tộc học, Bia ký học, Khảo cổ học, Dân số học, Sinh thái học...), bài viết góp phần phục dựng lại toàn bộ sự thật sự kiện lịch sử trên, cùng với đó là những minh chứng cho tầm quan trọng trong việc vận dụng phương nghiên cứu khoa học xã hội liên ngành trong nghiên cứu sử học hiện nay.

 

Các bộ chính sử ghi chép về sự kiện vua Lê Thánh Tông đi đánh Chiêm Thành vào năm 1470 có Đại Việt sử ký toàn thư (Toàn thư) của Ngô Sĩ Liên, Khâm định Việt sử thông giám cương mục (Cương mục) của Sử quán triều Nguyễn, Đại Nam nhất thống chí (Thống chí)Phủ biên tạp lục (Tạp lục) của Lê Quý Đôn và nhiều bộ sử khác như Việt Nam sử lược của Trần Trọng Kim, Việt sử xứ Đàng Trong của Phan Khoang; bên cạnh đó có nhiều khảo cứu về Phú Yên có đề cập đến sự kiện này như Người chứng thứ nhất của Phạm Đình Khiêm, Non nước Phú Yên của Nguyễn Đình Tư, Tìm hiểu địa danh qua tục ngữ ca dao Phú Yên của Nguyễn Đình Chúc...

Sách Toàn thư thuật lại toàn bộ diễn biến của sự kiện năm 1470 như sau: Tháng 8 (Canh Dần) quốc vương Chiêm Thành Bàn La Trà thân hành đem hơn 10 vạn quân thủy bộ cùng voi ngựa đánh úp Châu Hóa. Tướng trấn giữ biên thùy Châu Hóa là bọn Phạm Văn Hiển đánh không nổi, phải dồn cả dân vào thành rồi cho chạy thư báo cấp... Ngày Canh Thìn mùng 6 tháng này lệnh sai Chinh lỗ tướng quân Lâm quận công Đinh Liệt, Phó tướng Kỳ quận công Lê Niệm đem 10 vạn thủy quân đi trước... Ngày mùng 6 (tháng 11) vua xuống chiếu thân hành đi đánh Chiêm Thành... Vua bèn gọi 26 vạn tinh binh, xuống chiếu thân chinh... Ngày 18 thủy quân vào đến đất Chiêm Thành... Ngày mùng 7 (tháng 2) vua tự mình dẫn hơn 1.000 chiếc thuyền, hơn 70 vạn tinh binh ra hai cửa biển Tân Áp và Cựu Tọa dựng cờ thiên tử, đánh trống hò reo mà tiến... Ngày 27, vua tự mình đem đại quân đánh phá thành Thi Nại, chém hơn 100 thủ cấp... Ngày 28, vua tiến vây đến sát thành Chà Bàn... Ngày mùng 1-3 hạ được thành Chà Bàn, bắt sống hơn 3 vạn người, chém hơn 4 vạn thủ cấp, bắt sống Trà Toàn rồi đem quân về... Tháng 6, lấy đất Chiêm Thành đặt làm Thừa tuyên Quảng Nam và vệ Thăng Hoa. Đặt chức án sát sứ ở 12 thừa tuyên và đặt 3 ty ở Quảng Nam. (Đại Việt sử ký toàn thư, 2005, tập II, tr.467-479).

Sách Cương mục ngoài việc ghi chép lại diễn tiến cuộc hành quân của vua Lê Thánh Tông, sách này còn ghi tiếp: Vệ quân Thuận Hóa bắt sống Trà Toàn dẫn lên trước mặt vua, nhà vua ban chỉ dụ hỏi han yên ủi, sai dẫn ra ngoài ti trấn điện. Bèn hạ chiếu đem quân về... Tháng 6, đặt đạo Quảng Nam. Nhà vua đem đất Chiêm Thành đặt làm Quảng Nam thừa tuyên, quản lĩnh 3 phủ, 9 huyện, đặt 3 ty: Đô ty, Thừa ty, Hiến ty và đặt vệ quân Thanh Hóa gồm 5 cơ sở. (Khâm định Việt sử thông giám Cương mục, 1998, tập I, tr.1009-1103).

Tiếp theo sách Tạp lục cũng dẫn việc Lê Thánh Tông tiến đánh Chiêm Thành giống như hai bộ sử trên, nhưng Lê Quý Đôn dẫn thêm sách Thiên Nam dư hạ tập nói về cương vực của nước ta dưới triều Hồng Đức cụ thể hơn, theo đó địa giới của Đại Việt tới đèo Cù Mông. (Lê Quý Đôn, 1964, tr.32-34).

Sách Thống chí nói về diên cách Phú Yên: “Đời Đường đổi làm Châu Lâm, sau bị Chiêm Thành chiếm cứ, tức là đất Ba Đài và Đà Lãng. Nước ta, Lê Thánh Tông đánh Chiêm Thành, chiếm lấy đất này đặt làm huyện Tuy Viễn, lấy núi Thạch Bi làm giới hạn, nhưng từ Cù Mông về Nam còn thuộc người Man, người Lào”. (Đại Nam nhất thống chí, 1971, tập III, tr.60-61).

Qua 4 bộ chính sử trên không thấy nhắc đến việc vua Lê Thánh Tông sai người khắc bia trên đỉnh núi Đèo Cả vào năm 1471, chỉ ghi sau khi vua đuổi tàn quân Chiêm vào tận chân Thạch Bi rồi rút về lấy địa giới đèo Cù Mông làm phân ranh giữa Chiêm Thành và Đại Việt, còn vùng đất Phú Yên vẫn thuộc người Man, người Lào, cụ thể là thuộc hai vương quốc Hoa Anh và Nam Bàn. Sách Toàn thư viết đại ý như sau: “Sau khi Trà Toàn bị bắt, tướng của hắn là Bồ Trì Trì chạy đến Phiên Lung, chiếm lấy đất ấy, xưng là chúa Chiêm Thành. Vua lại phong vương cho cả Hoa Anh và Nam Bàn gồm 3 nước để dễ ràng buộc” (Đại Việt sử ký toàn thư, 2005, tập II, tr.477). Nước Nam Bàn ở đây theo sách Cương mục cho biết là đất của Thủy xá, Hỏa xá, nay thuộc vùng Gia Lai, Kon Tum và Đắc Lắc; nước Hoa Anh thì theo ý kiến của Đào Duy Anh, Hoàng Văn Lâu, Hà Văn Tấn là thuộc vùng đất tỉnh Phú Yên và Khánh Hòa ngày nay.

Nếu như sử liệu nói chính xác hơn về địa bàn nước Hoa Anh cũng như việc đối chiếu bia ký, bản đồ rõ hơn thì chúng ta có thể xác định ranh giới giữa Đại Việt và Chiêm Thành năm 1471. Tuy nhiên càng về sau xuất hiện những tác phẩm biên khảo đi ngược lại với các bộ chính sử trên, khẳng định vua Lê Thánh Tông có sai người khắc bia đá trên đỉnh núi Thạch Bi và cho rằng địa giới của Đại Việt vào thế kỷ XV kéo dài đến Phú Yên. Cơ sở mà các tác phẩm biên khảo đưa ra là dựa vào việc thu thập những tư liệu điền dã ở địa phương và những truyền thuyết dân gian, tiêu biểu: Địa dư chí của Lê Quang Định, Đại Nam thực lục của Quốc sử quán triều Nguyễn,Việt Nam văn hóa sử cương của Đào Duy Anh, Việt sử xứ Đàng Trong của Phan Khoang, Theo dấu hai bà Ngọc Liên, Ngọc Đỉnh đăng trên Văn hóa nguyệt san của Phạm Đình Khiêm...

Sách Hoàng Việt nhất thống dư địa chí của Lê Quang Định nói đại ý như sau: Đến niên hiệu Quang Thuận, Lê Thánh Tông đem quân chinh phạt Chiêm Thành, lấy đến phía bắc núi Thạch Bi, rồi đặt thành quận huyện, dời dân ngoài Bắc vào lập nghiệp, từ núi Thạch Bi trở vào Nam vẫn là đất của Chiêm Thành và Chân Lạp. (Lê Quang Định, 2005, tr.11).

Tác giả Nguyễn Siêu thận trọng hơn dẫn lại toàn bộ sự kiện trong sách của Lê Quý Đôn và Lê Quang Định, sau đó đưa ra lời nhận định của mình: Nay xét trong Lê sử: ngày 1 tháng 3 năm thứ 2 niên hiệu Hồng Đức chỉ đến huyện Tuy Viễn, dãy núi Cù Mông trở về nam vẫn còn đất Chiêm Thành. Những lời tục truyền tưởng không phải là thực. Ngày nay đi qua núi Đại Lãnh, xa trông núi ấy sắc núi hơi trắng. (Nguyễn Siêu, 1960, tr.132).

Sách Việt Nam văn hóa sử cương, nhà nghiên cứu Đào Duy Anh cũng thuật lại chuyện vua Lê Thánh Tông đánh Chiêm Thành, sau đó tác giả nói thêm là người Việt Nam đã tạo thế lực mở mang quốc cảnh đến tận phía Nam tỉnh Phú Yên.

Trong tác phẩm Việt sử xứ Đàng Trong, tác giả Phan Khoang đã dẫn lời truyền thuyết của dân gian là vua Lê Thánh Tông có sai người đục đá khắc bia trên núi Thạch Bi. Tác giả còn dẫn nội dung của văn bia: “Chiêm Thành quá thử, binh bại quốc vong, An Nam quá thử, tướng tru binh chiết”, nghĩa là: “Chiêm Thành qua đây, quân thua nước mất, An Nam qua đấy, tướng chết, quân tan” (Phan Khoang, 2001, tr.88). Nhưng tác giả Phan Khoang không đồng tình với truyền thuyết trên mà cho rằng vua Lê Thánh Tông có cho lính đi vào đến hết địa phận Phú Yên ngày nay, rồi nhân đó đục đá làm bia, chứ vua không đến đó.

Về sau, nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Tư trong tác phẩm Non nước Phú Yên cũng nhắc đến cuộc tiến binh năm 1470 của vua Lê Thánh Tông, tác giả viết như sau: Ngài ra lệnh cho khắc bia trên núi Đá Bia rồi ra lệnh ban sư. Khi quân ta rút về rồi, chính quyền ta chỉ thi hành đến huyện Tuy Viễn thuộc tỉnh Bình Định mà thôi, người Chiêm Thành lại tràn qua Đèo Cả chiếm cứ Phú Yên. Qua tác phẩm này, tác giả Nguyễn Đình Tư khẳng định việc vua Lê Thánh Tông có cho người khắc bia, nhưng việc quản lý về cương giới của người Việt chưa tới Đèo Cả.

Như vậy, về mặt sử liệu và những tác phẩm biên khảo có nhiều mâu thuẫn, thậm chí trái ngược nhau. Tựu chung có 3 quan điểm về sự kiện lịch sử năm 1470 (Canh Dần): (1) vua Lê Thánh Tông không đặt chân đến đất Phú Yên; (2) vua Lê Thánh Tông không đi đến đất Phú Yên mà chỉ sai một toán quân vào đến tận núi Thạch Bi và không biết có khắc bia hay không; (3) cho rằng vua Lê Thánh Tông đã đến đất Phú Yên và cho lính khắc bia trên núi Thạch Bi.

Các ý kiến trên đây hoặc chỉ thiên lệch về một nguồn sử liệu, hoặc chịu ảnh hưởng của những nhân tố chính trị; mặc khác cũng do sự hạn chế về mặt phương pháp và sự hỗ trợ của nhiều cứ liệu liên ngành (khảo cổ học, bia ký học, sinh thái học...). Ý kiến thứ nhất và thứ ba cùng nghiêng hẳn về một nguồn tư liệu. Ý kiến thứ nhất thì dựa hẳn vào các bộ chính sử như Toàn thư, Cương mục, Thống chí, Tạp lục, cho rằng vua Lê Thánh Tông tiến quân tới chân đèo Cù Mông, giết được vua Chiêm Thành là Trà Toàn, lấy đất ấy lập ra Thừa tuyên Quảng Nam thống lĩnh 3 phủ, 9 huyện. Ý kiến thứ ba chịu ảnh hưởng các nhân tố chính trị và sự lệ thuộc vào các nguồn tư liệu dân gian còn lưu giữ ở vùng đất Phú Yên. Những người theo quan điểm này cho rằng vua Lê Thánh Tông thân chinh tới tận núi Đá Bia, cho người khắc bia làm ranh giới giữa Đại Việt và Chiêm Thành, thậm chí có người cho rằng ranh giới Đại Việt đến tận vùng Hòa Thuận (Phan Rang).

Hạn chế của hai ý kiến trên là chưa giải thích được một số sự kiện lịch sử, ví dụ như tại sao vua Lê Thánh Tông phong vương cho hai nước Nam Bàn và Hoa Anh, cơ sở và lý do nào nhà vua làm vậy, chẳng lẽ tự nhiên nhà vua lại đi phong vương cho vùng đất mà mình chưa hoàn toàn thông hiểu, chí ít là qua tướng lĩnh của mình. Bên cạnh đó, hai ý kiến chưa làm rõ được địa bàn của nước Hoa Anh. Thiết nghĩ, theo chúng tôi nghiên cứu vấn trên phải kết hợp nhiều nguồn tư liệu khác nhau (Khảo cổ học, Dân tộc học, Sử học, Sinh thái học...), đồng thời kết hợp so sánh - đối chiếu các nguồn sử liệu của Việt Nam theo phương pháp lịch đại, cũng như đối chiếu với nguồn sử liệu của Trung Hoa và các bia ký của người Chăm.

Sử liệu đầu tiên có liên quan đến việc nhìn nhận cuộc Nam tiến của vua Lê Thánh Tông là sự kiện quân Chiêm Thành quấy nhiễu vùng Cổ Lũy, Đại Chiêm, vua Lê Thánh Tông ban chiếu đánh dẹp quân Chiêm vào năm 1470. Khi tiến quân đến vùng Thuận Hóa, vua ngầm sai thổ tù Nguyên Vũ lén vẽ hình thể của Chiêm Thành để dễ tiến quân (Đại Việt sử ký toàn thư, 2005, tập II, tr.474). Về sau, Trần Trọng Kim dẫn lại sự kiện này trong sách Việt Nam sử lược và nói rõ hơn: Khi quân vào đến Thuận Hóa, Thánh Tông đóng quân lại để luyện tập và sai người lẻn sang vẽ địa đồ nước Chiêm Thành để biết cho rõ chỗ hiểm chỗ không rồi mới tiến binh lên đánh cửa Thị Nại (Trần Trọng Kim, 1971, quyển I, tr.262). Dựa vào sự kiện này có thể thấy Lê Thánh Tông là vị vua có nhiều mưu mẹo lớn khi sai người lẻn vào vẽ địa đồ của nước Chiêm Thành, phải chăng với tính chất này có liên quan đến sự kiện khắc bia tại núi Đèo Cả, nghĩa là vị vua này sai một toán quân cấp tốc chạy vào địa phận Phú Yên nhân cơ hội vua Chiêm Thành bỏ chạy đến tận Phan Rang và tung tin là quân Đại Việt đã tới tận Đèo Cả.

Về mặt Sinh thái học thì vùng đất Phú Yên xưa có địa hình hiểm trở, nhiều đồi núi, phải vượt qua nhiều sông suối mới đến được dãy núi Đại Lãnh. Việc đi lại trên địa phận Phú Yên chủ yếu là đường thủy và tốn nhiều thời gian, đặc biệt phải vượt qua 2 dãy núi Cù Mông và sông Đà Rằng, thêm vào đó thủy thổ ở đây không thuận lợi với những người mới đặt chân đến. Vả lại, ngọn núi Thạch Bi cao 706m, trên núi có nhiều thú dữ và đường đi khó khăn nên trong khoảng thời gian ngắn quân Đại Việt không thể khắc bia trên đỉnh núi được. 

Về mặt Dân số học, theo ghi chép của Nguyễn Trãi trong Ức trai tập thì thời Hậu Lê nước ta có khoảng 7.000.940 đinh, mà theo nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Đầu đây là cách tính đầu người có nghĩa là dân số nước ta thời Hậu Lê có hơn 7 triệu. Thực chất dân số nước ta hơn 7 triệu thời đầu Lê sơ cũng là quá cao, tác giả Trương Hữu Quýnh phỏng đoán chừng 5 - 6 triệu người. Như vậy với số lượng dân số trên không thể rải đều trên vùng đất rộng lớn đến tận Thuận Hóa huống chi là vào đến Phú Yên. Khi việc ban sư xong vua Lê Thánh Tông mới chỉ khuyến khích lưu dân đến vùng đất Cổ Lũy, Đại Chiêm khai hoang. Luận điểm này chứng minh vua Lê Thánh Tông chưa hề có chiếu dụ lưu dân đến khai hoang vùng đất Phú Yên, cũng như bác bỏ núi Thạch Bi là mốc ranh giới Đại Việt và Chiêm Thành từ năm 1471.

Cơ sở thứ tư là dựa vào Hồng Đức bản đồ năm 1490 cho biết ranh giới Đại Việt chỉ tới đèo Cù Mông. Nếu như Phú Yên thuộc đất Đại Việt thì không lẽ vua Lê Thánh Tông không vẽ thêm theo đúng với tư tưởng của ông: “Ta phải giữ gìn cho cẩn thận, đừng để cho ai lấy mất một phân núi, một tấc sông của vua Thái tổ để lại” (Trần Trọng Kim, 1971, quyển I, tr.264). Luận điểm này cho thấy Phú Yên chưa hề thuộc đất Đại Việt và là ranh giới với Chiêm Thành từ năm 1471.

Cuối cùng dựa vào nguồn tư liệu về Khảo cổ học, Bia ký học và các nguồn sử liệu của Trung Hoa nói rằng Phú Yên từng là địa bàn của tiểu quốc Lăng-gia-bạt-đa vào thế kỷ thứ IX. Trong tiểu quốc này có mô hình: núi Đá Bia - sông Đà Rằng - cảng Tuy Hòa - Thành Hồ - Tháp Nhạn. Theo cố Giáo sư Trần Quốc Vượng thì vùng đất Phú Yên thời Chămpa có tên là Môn Độc quốc (Mondu) và núi Lingaparvata - Linga - Đấng Đại Sơn thần - tức là Thạch Bi Sơn. Núi thiên Lingaparvata (Thạch Bi Sơn) là ranh giới giữa Môn Độc quốc với Cổ Đan quốc (Kauthara - Nha Trang) và là biểu tượng của Môn Độc quốc (Di cảo của cố Giáo sư Trần Quốc Vượng về chuyến công tác điền dã tại Phú Yên tháng 5-2003). Điều này minh chứng Thạch Bi Sơn không phải là ranh giới của Đại Việt và Chiêm Thành mà là ranh giới giữa các tiểu quốc thời Chămpa. Các tác phẩm biên khảo về sau cho rằng núi Thạch Bi là ranh giới xuất hiện từ năm 1471, mà thực chất Thạch Bi Sơn với tên Lingaparvata đã xuất hiện từ thế kỷ IX.

Với việc vận dụng phương pháp nghiên cứu khoa học xã hội liên ngành và sự hỗ trợ từ nhiều nguồn tư liệu như Khảo cổ học, Bia ký học, Dân số học, Sinh thái học... bước đầu minh chứng và xác thực sự thật lịch sử Nam tiến của vua Lê Thánh Tông vào năm 1470. Theo đó, vua Lê Thánh Tông không thân chinh qua dãy Cù Mông, có chăng sai toán quân với ý đồ về chính trị đi hết địa phận Phú Yên chứ không có chuyện cho người khắc bia trên núi Thạch Bi làm ranh giới giữa Đại Việt và Chiêm Thành, cùng với đó là địa giới Đại Việt kéo dài đến phía bắc dãy núi Cù Mông vào năm 1471.

TÀI LIÊU THAM KHẢO

1. Đào Duy Anh, 1998, Việt Nam văn hóa sử cương. Đồng Tháp: Nxb Đồng Tháp.

2. Lê Quang Định. Hoàng Việt nhất thống dư địa chí. Phan Đăng dịch, chú giải và giải thích. Huế: Nxb, Thuận Hóa, 2005.

3. Lê Quý Đôn, 1964, Phủ biên tạp lục. Hà Nội: Nxb Khoa học Xã hội.

4. Nguyễn Đình Đầu, 1997, Nghiên cứu địa bạ triều Nguyễn Phú Yên. Hồ Chí Minh: Nxb TP. Hồ Chí Minh.

5. Nguyễn Đình Tư, 1965, Non nước Phú Yên, Nxb. Tiền Giang.

6. Ngô Sĩ Liên. Đại Việt sử ký toàn thư: bản in nội các quan bản: mộc bản khắc năm Chính Hòa thứ 18 (1697). T.2/ Hoàng Văn Lâu d. và chú thích; Hà Văn Tấn h.đ. Hà Nội: Nxb Khoa học Xã hội, 2005.

7. Nguyễn Siêu, 1960, Phương đình dư địa chí, Sài Gòn: Nxb Tự Do.

8. Phạm Đình Khiêm, 1959, Người chứng thứ nhất, Sài Gòn: NXb, Tinh Việt Văn Đoàn.

9. Phan Khoang, 2001, Việt sử xứ Đàng Trong. Hà Nội: Nxb Văn học.

10. Quốc sử quán triều Nguyễn, 1998, Khâm Định Việt sử thông giám Cương mục: Tập I. Hà Nội: Nxb Giáo dục.

11. Quốc sử quán triều Nguyễn. 1971. Đại Nam nhất thống chí: Tập III, Hà Nội: Nxb Khoa học Xã hội.

12. Trần Trọng Kim, 1971, Việt Nam sử lược, Sài Gòn: Nxb Trung tâm học liệu.



[1] Thạch Bi Sơn còn gọi là Đá Bia, dân gian tương truyền là Núi Ông, thuộc dãy Đại Lãnh, cao 706m, nay thuộc địa phận xã Hòa Xuân Nam, huyện Đông Hòa, tỉnh Phú Yên.

Ths. Ngô Minh Sang - Khoa Khoa học Xã hội và Nhân văn Đại học Thủ Dầu Một


Một nét Bình Dương Một nét Bình Dương Một nét Bình Dương Một nét Bình Dương Một nét Bình Dương Một nét Bình Dương Một nét Bình Dương
Thống kê
Lượt truy cập: 24427190