Lịch sử Việt Nam

Bửu Sơn Kỳ Hương

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

 

Chùa Thới Sơn (Tịnh Biên) được coi như là Tổ đình của giáo phái Bửu Sơn Kỳ Hương[1].

Bửu Sơn Kỳ Hương là một giáo phái có ảnh hưởng lớn đến lịch sử và chính trị tại Nam Kỳ (Việt Nam) từ giữathế kỷ 19.

  •  

Hoàn cảnh ra đời

Bửu Sơn Kỳ Hương được khai sáng năm 1849 bởi một người tục danh Đoàn Minh Huyên (1807 - 1856), đạo hiệu là Giác Linh, quê ở Tòng Sơn, Cái Tàu thượng, tổng An Thạnh thượng, tỉnh Sa Đéc (nay thuộc tỉnh Đồng Tháp). Sau này, khi ông đến tu tại chùa Tây An (núi Sam, Châu Đốc) được tín đồ gọi tôn kính là Phật Thầy Tây An.

Năm 1849, ở Nam Kỳ xảy ra vụ mất mùa và đại dịch (kéo dài đến 1850), đã làm nhân dân lâm vào cảnh cùng cực, khổ đau và chết chóc. Trong hoàn cảnh ấy, Đoàn Minh Huyên từ Tòng Sơn vào Tràm Dư, rồi đến vùng Kiến Thạnh (nay là làng Long Kiến, huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang) trổ tài trị bệnh cho dân. Từ chỗ chữa trị bệnh có kết quả, ông dìu dắt được nhiều bệnh nhân và người thân của họ nghe theo những điều răn dạy của ông.

Thấy người tin theo ngày một đông, nên ngay năm 1849[2], ông đã sáng lập ra đạo Bửu Sơn Kỳ Hương, và tồn tại cho đến ngày hôm nay.

Sơ lược đặc điểm của giáo phái

Rao giảng về hội Long Hoa

Theo truyền thuyết của giáo phái này, thì Bửu Sơn (núi báu) là Thất Sơn, mà linh thiêng nhất là núi CấmKỳ hương tức là mùi hương lạ. Hội Long Hoa sau thời Mạt pháp sẽ được thành lập ở đó để đón nhận những ai biết tu hiền.

Trước thực trạng nghèo đói và bệnh tật triền miên, nghe nói hội Long Hoa, giống như cõi Tiên tại thế, mà việc hành đạo lại rất dễ, nên người tin theo ngày càng đông. Nhà văn Sơn Nam viết:

Có thể nói Phật Thầy Tây An là người thứ nhất báo hiệu và đánh thức người đời rằng thời kỳ Hạ ngươn sắp mãn để bước sang thời Thượng ngươn, tức là thời kỳ Đức Di-lặc hạ sanh lập nên hội Long Hoa [3].

Đơn giản hóa đạo Phật

 

Trần điều tại chùa Thới Sơn

Người đến quy y sẽ được Đoàn Minh Huyên cấp cho một tấm "lòng phái" (mảnh giấy màu vàng có ghi bốn chữ “Bửu Sơn kỳ Hương” màu son), được truyền dạy giáo lý "học Phật - tu nhân"[4], tức là noi theo giáo lý Đức Phật mà tu sửa con người, tích cực thực hành thuyết "Tứ ân (ơn)", đó là: Ân tổ tiên cha mẹÂn đất nướcÂn Tam bảo và Ân đồng bào nhân loại.

Về việc hành đạo, tuy lấy đạo Phật làm gốc, nhưng tín đồ đạo này không cần thờ tượng Phật (trên ngôi thờ Tam bảo chỉ cần thờ tấm trần điều màu đỏ[5]), không cần phải ly gia cắt ái, không cần ăn chay, cạo râu tóc, gõ mõ tụng kinh,...và không cần phải dâng cúng những lễ vật tốn kém (bông hoa, nước lã là đủ).

Nhiều nhà nghiên cứu, trong đó có Sơn Nam cho rằng đây là lối tu theo thuyết “vô vi”, tức là không chú trọng đến hình thức, không dụng tâm bày đặt ra cái này cái khác [6].

Đề cao Tứ ân

Ngoài việc tuân theo thuyết vô vi và pháp môn học Phật - tu nhân, Phật Thầy Tây An còn đề cao Tứ ân. Đây là bốn ân lớn mà mọi tín đồ Bửu Sơn Kỳ Hương phải kết lòng kính thờ và phụng sự. Có thể xem đây là nét tinh túy của đạo, bởi yếu lý này rất phù hợp với bản sắc của dân tộc Việt.

Chính vì vậy, khi quân Pháp xâm chiếm Nam Kỳ, các tín đồ đã báo “ân đất nước” bằng cách đứng lên chống ngoại xâm, mà cuộc khởi nghĩa Bảy Thưa (1867 -1873) do Trần Văn Thành (đại đệ tử của Phật Thầy Tây An) phát động, là một minh chứng.

Cổ súy khẩn hoang

Phật Thầy Tây An rất xem trọng việc khẩn hoang, làm rẫy ruộng để người hành đạo có thể tự túc được lương thực, không phải nhờ vào người khác để mà tu. Nhờ vậy đã dấy lên được một phong trào khai hoang rộng khắp miền Tây Nam Bộ lúc bấy giờ. Theo sách Lịch sử địa phương An Giang[7], thì năm 1851, Đoàn Minh Huyên đã phân công các đệ tử là Trần Văn ThànhTăng Chủ (Bùi Đình Thân), Đạo Xuyến (Nguyễn Văn Xuyến),...thành lập nhiều đoàn tín đồ đi khẩn hoang những miền đất hoang vu, lập nên những trại ruộng, như ở Cần Lố (Đồng Tháp Mười), Láng Linh (Châu Phú), Thới Sơn (Tịnh Biên),...Nhờ đức tin, mà những tín đồ đã bám trụ và khẩn hoang, biến những vùng đầm lầy, rừng rậm thành những vùng đất rộng lớn, màu mỡ.

Sau này, đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa và đạo Hòa Hảo chịu ảnh hưởng sâu sắc các yếu lý trên.

Trích sám giảng

Tương truyền, Phật Thầy Tây An thường căn dặn các tín đồ và người đến chữa bệnh bằng những câu như sau:

Dặn cùng già trẻ gái trai,

Giữ lòng niệm Phật lâu dài đừng quên.

Thảo ngay nhơn nghĩa cho bền,

Thờ cha kính mẹ, tưởng trên Phật Trời.

Nói cho lớn nhỏ ghi lời,

Nhứt tâm niệm Phật, Phật Trời độ cho.

Ai trau công quả cho dày,

Đất bùn có thuở mọc rày hoa sen.

Màu thiền đắc ý cùng màu,

Còn hơn chen chúc công hầu vương khanh.

Tây Phương trước mặt chẳng còn bao xa

Cách nhau vì bởi ái hà biển mê

Dốc lòng niệm chữ từ bi,

Lấy đao trí huệ cắt đi cho rồi...[8]

Chú thích

  1. ^ Nơi có chùa Thới Sơn hiện nay, thời Phật Thầy Tây An còn tại thế, chỉ là một "trại ruộng" của hai làng là Xuân Sơn và Hưng Thới, sau mới được tín đồ biến cải thành chùa. Chùa của giáo phái Bửu Sơn Kỳ Hương thường có lối kiến trúc "trước miễu, sau chùa" như trong ảnh (chùa của đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩacũng có kiểu tương tự). Trong ảnh còn cho thấy bộ trang phục hành lễ của người theo đạo này.
  2. ^ Theo Địa chí An Giang (Tập 2), do UBND tỉnh An Giang tổ chức biên soạn và ấn hành, 2007, tr. 229.
  3. ^ Sơn Nam, Cá tính miền Nam (tr. 31 và 33), Sau, thuyết này còn được người mở đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩavà đạo Hòa Hảo nhắc lại nhiều lần.
  4. ^ Đạo Hòa Hảo và Tứ Ân Hiếu Nghĩa cũng rao truyền giáo lý này. Tuy nhiên đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa lại đề cao việc tu nhân hơn (tu nhân - học Phật).
  5. ^ Trần điều đạo Hòa Hảo hiện nay có màu nâu sẫm.
  6. ^ Sơn Nam, Lịch sử An Giang, tr. 76.
  7. ^ ThS. Phan Văn Kiến, Lịch sử địa phương An Giang, tr.19.
  8. ^ Xem nguyên tác trong mục từ Phật Thầy Tây An, in trong sách của GS. Trịnh Vân Thanh.

Xem thêm

Sách tham khảo

  • Nhiều người soạn, Địa chí An Giang (Tập 2), do UBND tỉnh An Giang tổ chức biên soạn và ấn hành, 2007.
  • Sơn NamLịch sử An Giang, Nhà xuất bản Tổng hợp An Giang, 1988.
  • Sơn NamCá tính miền Nam. Nhà xuất bản Trẻ, 1997.
  • Trịnh Vân Thanh, Thành ngữ điển tích danh nhân từ điển (Quyển 2). Nhà xuất bản Hồn Thiêng, Sài Gòn, mục từ Phật Thầy Tây An.
  • Phan Văn Kiến, Lịch sử địa phương An Giang. Nhà xuất bản Giáo dục, 2009.

Hội Khoa Học Lịch Sử Bình Dương


Một nét Bình Dương Một nét Bình Dương Một nét Bình Dương Một nét Bình Dương Một nét Bình Dương Một nét Bình Dương Một nét Bình Dương
Thống kê
Lượt truy cập: 24468113